Skip To Main Content
  • Article
  • Source: Campus Sanofi

Vắc Xin Não Mô Cầu Cộng Hợp: Tối Ưu Hóa Tác Động Toàn Cầu

08-04-2020

Bệnh do nhiễm não mô cầu - do vi khuẩn Neisseria meningitidis gây ra, thể lâm sàng thường gặp nhất là nhiễm trùng máu hoặc viêm màng não, đối với các bệnh nhiễm trùng cục bộ khác như viêm phổi thì ít gặp hơn. Nhiễm trùng máu có thể xảy ra có hoặc không có nhiễm trùng cục bộ khác. Nhiễm trùng máu tối cấp xảy ra ở khoảng 20% ​​bệnh nhân bị nhiễm khuẩn huyết và kết quả là sự tăng sinh nhanh chóng của não mô cầu trong máu. Tỷ lệ tử vong trong trường hợp tổng thể đối với bệnh do não mô cầu là khoảng 10-15% và cao tới 25-30% ở bệnh nhân bị nhiễm trùng máu. Bệnh khởi phát thường nhanh và tử vong có thể xảy ra trong vòng 24 giờ trong trường hợp không điều trị sớm.

Vi khuẩn Neisseria meningitidis có hiện tượng hội sinh nhất thời ở vùng hầu họng của con người. Sự xâm nhập của các vi sinh vật vào vùng hầu họng là việc tất yếu cho sự phát triển của bệnh, nhưng như vậy là chưa đủ. Trong phần lớn các trường hợp, người lành mang trùng có một sự miễn dịch nhất định, dẫn đến các kháng thể bảo vệ có khả năng ngăn ngừa bệnh. Tần suất người mang trùng rất khác nhau. Ở các nước công nghiệp hóa, người lành mang trùng vi khuẩn não mô cầu được quan sát thấy ở khoảng 10% dân số nói chung, tăng từ 2% ở trẻ em dưới 4 tuổi lên đến đỉnh điểm là 24,5-32% ở những người từ 15-24 tuổi, sau đó giảm dần theo tuổi.

Vắc-xin cộng hợp

Sự kết hợp của các polysaccharide vỏ và protein mang dẫn đến đáp ứng miễn dịch tế bào T phụ thuộc. Những protein mang này được nhận diện bởi các tế bào B đặc hiệu polysaccharide và các tế bào T trợ giúp, tăng cường sản xuất tế bào plasma và tế bào B nhớ. Kết quả của việc này là phản ứng miễn dịch diễn ra mạnh mẽ hơn so với vắc-xin polysaccharide, bao gồm sự tồn tại của kháng thể lớn hơn, tính ái lực cao hơn và bộ nhớ miễn dịch lâu dài.

Vắc-xin cộng hợp đối với những tác nhân gây bệnh do vi khuẩn đường hô hấp có tác dụng miễn dịch đối với trẻ nhũ nhi và bảo vệ chống lại vi khuẩn khu trú vùng hầu họng. Một số vắc-xin não mô cầu cộng hợp hiện đang có sẵn (Bảng 1). Thành phần của các loại này rất khác nhau và có sự khác biệt trong nhóm huyết thanh được sử dụng, sự khác nhau các kháng nguyên của polysaccharide vỏ, loại protein mang đã được sử dụng và phương pháp cộng hợp đều có thể ảnh hưởng đến đặc điểm của phản ứng miễn dịch và điều này ảnh hướng đến hiệu quả của vắc-xin. Hiệu quả của vắc-xin cũng phụ thuộc vào nhóm tiêm chủng mục tiêu và lịch trình tiêm chủng. Đáp ứng miễn dịch và sự suy giảm miễn dịch phụ thuộc vào độ tuổi. Đối với trẻ nhỏ và trẻ em cần nhiều liều hơn và chứng tỏ rằng mức độ kháng thể giảm nhanh hơn so với nhóm trẻ có độ tuổi lớn hơn và thanh thiếu niên.

Bảng 1
Một số vắc-xin não mô cầu cộng hợp hiện có

Vắc xin cộng hợp Týp huyết thanh Protein mang
Tứ giá A, C, Y, W-135 Chất phản ứng chéo 197 (đột biến của giải độc tố bạch hầu - CRM197)
Tứ giá A, C, Y, W-135 Giải độc tố bạch hầu
Đơn giá C CRM197
Đơn giá C Giải độc tố uốn ván
Đơn giá A Giải độc tố uốn ván

Thích nghi của Vắc-xin, tái bản lần thứ 5, Granoff et al, Vắc-xin não mô cầu, trang 399-434, Bản quyền Elsevier (2008).

Chương trình tiêm chủng vắc-xin não mô cầu và hiệu quả vắc-xin

Vắc-xin viêm não mô cầu cộng hợp đã được phát triển để khắc phục những hạn chế của vắc-xin polysaccharide. Kể từ khi vắc-xin não mô cầu cộng hợp được sử dụng ở Vương quốc Anh vào năm 1999, các chương trình tiêm chủng đã được mở rộng trên khắp Châu Âu, Úc và Bắc Mỹ. Các chương trình này được thực hiện bằng cách sử dụng các lịch trình và nhóm tuổi mục tiêu khác nhau. Nhìn chung, ước tính hiệu quả của vắc-xin tương đương với dữ liệu miễn dịch, nhưng sự ảnh hướng đến sức khỏe cộng đồng đã được quan sát của các chương trình này có thể là sự kết hợp của vắc-xin đã được sử dụng, nhóm tuổi mục tiêu và lịch trình khuyến nghị. Trong khi một số quốc gia đã thực hiện các khuyến nghị thường quy cho một nhóm tuổi cụ thể, thì các quốc gia khác đã thực hiện các chiến dịch tiêm đuổi bên cạnh các khuyến nghị thường quy, nhanh chóng đạt được mức độ sử dụng vắc-xin cao và bảo vệ dân số. Sự khác biệt trong đa dạng chủng lưu hành cũng có thể góp phần tạo nên sự khác nhau của hiệu quả vắc-xin, và các nghiên cứu được cấp phép sau đó đã chứng minh tầm quan trọng của việc vắc-xin cộng hợp làm giảm người lành mang trùng và giúp tạo miễn dịch cộng đồng.

Ở Vương quốc Anh, hiệu quả vắc-xin đối với nhóm thanh thiếu niên (93%) được duy trì đến 4 năm sau khi tiêm vắc-xin đuổi. Mặc dù hiệu quả cao (83%) ở những người được tiêm vắc-xin đuổi sau 5 tháng tuổi, nhưng thấp hơn ở những người được tiêm chủng ở trẻ sơ sinh (66%). 82,83 Ở Tây Ban Nha, hiệu quả vắc-xin nhiều hơn 1 năm sau tiêm chủng là 78% đối với những trẻ sơ sinh được tiêm chủng, và 94% đối với trẻ em 7 tháng tuổi đến 5 tuổi.84.85 Nghiên cứu hiệu quả vắc xin (VE) ở Hoa Kỳ đang diễn ra, nhưng ước tính ban đầu cho thấy hiệu quả của vắc-xin là 50-60% sau khi tiêm vắc-xin.

Các chương trình vắc-xin cộng hợp có khả năng cung cấp sự bảo vệ gián tiếp thông qua khả năng miễn dịch cộng đồng. Hai năm sau khi giới thiệu vắc-xin não mô cầu cộng hợp týp huyết thanh C ở Vương quốc Anh, người lành mang trùng của týp huyết thanh C đã giảm 67%.86 Tỷ lệ tấn công ở trẻ em chưa được tiêm chủng ở Vương quốc Anh cũng giảm 67% trong 4 năm sau khi sử dụng vắc-xin. Từ năm 1998 đến 2009, tỷ lệ mắc bệnh huyết thanh C ở những người trên 25 tuổi giảm từ 0,55 xuống 0,02 trên 100.000 người; và số trường hợp ở trẻ dưới 3 tháng tuổi giảm từ 13 vào năm 1998 xuống còn 1 vào năm 2009.88 Những tác động này được quan sát mặc dù đã giảm huyết thanh kháng thể bảo vệ trong số các nhóm tiêm chủng sớm nhất là 18 tháng sau liều vắc-xin theo lịch trình cuối cùng. Điều này cho thấy sự bảo vệ bền vững do miễn dịch cộng đồng mặc dù không có kháng thể bảo vệ ở từng cá nhân.89 Gợi ý bổ sung về miễn dịch cộng đồng đến từ Ontario, trong đó giảm 16% mỗi năm đối với bệnh do não mô cầu huyết thanh C xảy ra ở những người ≥20 tuổi từ 2000-2006 sau khi giới thiệu Chương trình tiêm vắc-xin não mô cầu cộng hợp týp huyết thanh C ở thanh thiếu niên và trẻ sơ sinh vào năm 2001.90 Miễn dịch cộng đồng đã không được chứng minh ở Hoa Kỳ - nơi mà mức đô bao phủ của vắc-xin não mô cầu tứ giá trong số thanh thiếu niên đã tăng chậm trong 5 năm kể từ khi được sử dụng.

Vắc-xin não mô cầu cộng hợp có nhiều ưu điểm so với vắc-xin polysaccharide, bao gồm khả năng tạo ra sự tồn tại kháng thể lớn hơn, ái lực, trí nhớ miễn dịch và khả năng miễn dịch cộng đồng. Một số quốc gia áp dụng các chương trình tiêm chủng vắc-xin cộng hợp đã dẫn đến sự suy giảm đáng kể bệnh não mô cầu. Do dịch tễ học của bệnh do não mô cầu trên toàn thế giới cho từng quốc gia chưa đầy đủ, nên chiến lược tiêm phòng tối ưu để phòng bệnh lâu dài sẽ khác nhau tùy theo thuộc điều kiện từng quốc gia.

Bài lược dịch từ: Meningococcal conjugate vaccines:  optimizing global impact Tác giả: Andrew Terranella, Amanda Cohn and Thomas Clark https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3215346/pdf/idr-4-161.pdf

(*) theo Hội Y học Dự phòng Việt Nam

Tin tức liên quan