Skip To Main Content
  • Article
  • Source: Campus Sanofi

Quan Điểm Của WHO Về Vắc Xin Ho Gà, 8/2015 - Phần 4: Vắc Xin Ho Gà Vô Bào

08-04-2020

Đặc điểm, hàm lương, liều lượng, cách sử dụng và bảo quản vắc-xin

Vắc-xin aP đầu tiên được phát triển ở Nhật Bản vào năm 1981 và đã dần trở thành loại vắc-xin chủ yếu được sử dụng ở các nước công nghiệp. Các loại vắc-xin này chứa một hoặc nhiều loại kháng nguyên đã được tinh chế sau: PT, FHA, PRN và FIM loại 2 và 3. Vắc-xin không chỉ khác nhau về số lượng (1 [chỉ PT], 2 [PT và FHA], 3 [PT, Các thành phần FHA, và PRN] hoặc 5 [PT, FHA, PRN, và FIM loại 2 và 3]) và nồng độ của các thành phần kháng nguyên, mà còn liên quan đến  vi khuẩn được sử dụng trong sản xuất, phương pháp tinh chế và khử độc ( glutaraldehyde, formaldehyde, H2O2 hoặc kĩ thuật di truyền), tá dược và chất bảo quản, chẳng hạn như thiomersal và phenoxyethanol.35 Kháng nguyên ho gà cũng như các thành phần bạch hầu và uốn ván có hàm lượng khác nhau trong những sản phẩm vắc-xin khác nhau được sử dụng cho trẻ nhỏ. Sự đóng góp của từng kháng nguyên aP vào hiệu quả bảo vệ chưa được hiểu rõ.

WHO đã xây dựng một bộ các khuyến nghị về chất lượng (sản xuất và phát hành), tính an toàn và hiệu lực của vắc-xin aP.35 Mặc dù vắc-xin aP thường được kết hợp với giải độc tố bạch hầu và uốn ván (DTaP), song cũng có thể bao gồm các loại vắc-xin khác được sử dụng thường quy cho trẻ nhũ nhi, chẳng hạn như Hib, HepB và IPV. Vắc-xin chứa liều giảm giải độc tố uốn ván và giải độc tố bạch hầu cũng đã được phát triển để tiêm nhắc.

Liều vắc-xin aP tiêu chuẩn là 0,5 ml và được tiêm trong cơ ở đùi trước của trẻ em dưới 12 tháng tuổi và cơ deltoid ở các nhóm tuổi lớn hơn.

Tương tự đối với vắc-xin wP, vắc-xin aP cũng được cấp phép sử dụng bắt đầu từ 6 tuần tuổi và các nhà sản xuất khuyến cáo 3 liều cơ bản với khoảng cách ít nhất 4 tuần giữa các liều, cũng như 1 hoặc 2 liều nhắc. Có sự khác biệt đáng kể trong lịch trình được sử dụng cho các mũi cơ bản. Ở một số quốc gia, sử dụng 2p + 1, thay vì loạt 3p, với vắc-xin được tiêm lúc 3, 5 và 12 tháng, hoặc lúc 2, 4 và 11/12 tháng.

Không được đông lạnh vắc-xin có chứa aP. Chúng nên được lưu trữ ở 2-8°C.

Sự miễn dịch, hiệu lực và hiệu quả của vắc-xin

Một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng so sánh vắc-xin chứa aP 3 thành phần và 5 thành phần với vắc-xin wP đã kết luận rằng các vắc-xin wP và vắc-xin aP có hiệu lực tương tự trong việc chống lại bệnh ho gà, được xác nhận bằng kết quả nuôi cấy với ít nhất 21 ngày ho kịch phát: RR đối với vắc-xin 5 thành phần so với wP là 0,85 (95%, CI: 0,41-1,79) và đối với vắc-xin 3 thành phần là 1,38 (95%, CI: 0,71-2,69). Đối với bệnh ho gà được xác nhận qua nuôi cấy, RR của vắc-xin 5 thành phần so với wP là 1,4 (95%, CI: 0,78-2,52) và RR của vắc-xin 3 thành phần là 2,55 (95%, CI: 1,5-4.33).

Trong một nghiên cứu ở Đức, vắc-xin aP 4 thành phần có hiệu lực bảo vệ chống lại bệnh ho gà điển hình là 83% (95%, CI: 76-88%).37 Trong một nghiên cứu ở Ý, hiệu lực bảo vệ 84% (95%, CI : 76-89%) và 84% (95%, CI: 76-90%) chống lại bệnh ho gà điển hình đã được báo cáo từ 2 loại vắc-xin aP 3 thành phần khác nhau so với một vắc-xin wP có hiệu lực thấp 38. Trong một nghiên cứu lớn ở Đức, hiệu lực của vắc-xin được tính ở mức 88,7% (95%, CI: 76,6-94,6%) sau khi tiêm vắc-xin aP 3 thành phần (DTaP) 39. Trong thử nghiệm ngẫu nhiên theo phương pháp “mù đôi” ở Senegal 33, loại vắc-xin DTaP 2 thành phần và vắc-xin DTwP được so sánh với nhau. Ước tính hiệu lực tuyệt đối từ nghiên cứu này cho thấy vắc-xin aP cung cấp ít sự bảo vệ hơn vắc-xin wP: 74% (95%, CI: 51% - 86%) so với 92% (95%, CI: 81% - 97%) sử dụng định nghĩa ca bệnh của WHO, mặc dù sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Thời hạn hiệu quả của các sản phẩm vắc-xin khác nhau sẽ được thảo luận sau.

Một đánh giá hệ thống về 3 thử nghiệm ngẫu nhiên mù đôi quy mô lớn đối với vắc-xin aP40 đã kết luận rằng vắc-xin aP đa thành phần có hiệu lực bảo vệ cao hơn vắc-xin aP 1 thành phần và 2 thành phần chống lại cả bệnh ho gà điển hình và bệnh ho gà nhẹ. Tương tự, một đánh giá hệ thống khác bao gồm 49 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng và 3 nghiên cứu đoàn hệ đã kết luận rằng vắc-xin aP 1 thành phần và 2 thành phần có hiệu lực tuyệt đối thấp hơn so với vắc-xin có từ 3 thành phần trở lên: (67-70% so với 80-84%).31 Tuy nhiên, trong các nghiên cứu quan sát về hiệu quả của vắc-xin sau một khoảng thời gian dài sử dụng các loại vắc-xin aP 2 thành phần được cấp phép (chủ yếu ở Thụy Điển41 và Nhật Bản42) và vắc-xin aP 1 thành phần trong chương trình tiêm chủng quốc gia của Đan Mạch, tất cả các loại vắc-xin chứa aP này đã chứng minh tính hiệu quả cao trong việc ngăn ngừa bệnh ho gà bất kể thành phần kháng nguyên như thế nào.. Do đó, số liệu hiệu lực cao hơn của vắc-xin đa thành phần so với vắc-xin 1 thành phần và 2 thành phần trong các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên cần phải được diễn giải cẩn trọng.

Các nghiên cứu cho đến nay chỉ ra rằng vắc-xin aP có hiệu quả cao hơn vắc-xin wP hiệu lực thấp (các vắc-xin wP có hiệu quả không tối ưu đã không còn được sử dụng), nhưng có thể kém hiệu quả hơn loại vắc-xin wP có hiệu lực nhất.43 Mặc dù một số đánh giá hệ thống đánh giá cao hơn vắc-xin aP đa thành phần so với vắc-xin aP có 1 hoặc 2 thành phần, nhưng khi xét đến kinh nghiệm sử dụng vắc-xin ở các quốc gia, 12, 40  thì những bằng chứng này không đủ để khẳng định bất kỳ sự khác biệt đáng kể nào về hiệu quả giữa các vắc-xin aP với số lượng thành phần khác nhau. Những giá trị hiệu quả này liên quan đến việc theo dõi tương đối còn ngắn hạn.

(*) theo Hội Y học Dự phòng Việt Nam

  1. WHO Expert Committee on Biological Standardization.Sixty-second report. Gene­va, World Health Organization,2013 (WHO Technical Report Series No. 979). See Annex 4, Recommendations to assure the quality, safety and efficacy of acellular pertussis vaccines, pp. 187-260. (Also available from http://www.who.int/biologi­cals/vaccines/TRS_979_Annex_4.pd f?ua=1) .
  2. Olin P, Rasmussen F, Gustafsson L, Hallander HO, Heijbel H. Randomised controlled trial of 2-component, 3- component, and 5-component acellular pertussis vaccines compared with the whole-cell pertussis vaccine. Ad Hoc Group for the Study of Pertus­sis Vaccines. Lancet, 1997,350:1569–1577.
  3. Stehr K, Cherry JD, Heininger U, Schmitt-Grohé S, Uberall M, Laussucq S, et al. A comparative efficacy trial in Germany in infants who received either the Lederle/ Takeda acellular pertussis component DTP (DTaP) vaccine, the Lederle whole-cell component DTP vaccine, or DT vaccine. Pediatrics, 1998, 101:1–11.
  4. Greco D, Salmaso S, Mastrantonio P, Giuliano M, Tozzi AE, Anemona A, et al. A controlled trial of 2 acellular vaccines and one whole-cell vaccine against pertussis. Progetto Pertosse Working Group. New England Journal ofMedicine, 1996, 334:341–348.
  5. Schmitt HJ, von König CH, Neiss A, Bogaerts H, Bock HL, Schulte-Wissermann H, Gahr M, Schult R, Folkens JU, Rauh W, Clemens R. Efficacy of acellular pertussis vaccine in early childhood after household exposure. JAMA.1996;275(1):37–41.
  6. Zhang L, Prietsch S, Axelsson I, Halperin SA. Acellular vaccines for preventing whoo­ping cough in children. The Cochrane database of systematic reviews 2014;9:CD001478.
  7. Carlsson R, Trollfors B Control of pertussis–lessons learned from a 10-year surveil­lance programme in Sweden. Vaccine, 2009, 27:5709–5718.
  8. Okada K, Ohashi Y, Matsuo F, Uno S, Soh M, Nishima S. Effectiveness of an acellular pertussis vaccine in Japanese children during a non-epidemic period: a matched case- control study. Epidemiology and Infection, 2009, 137:124–130.
  9. Gustafsson L, Hallander HO, Olin P, Reizenstein E, Storsaeter J A controlled trial of a 2-component acellular, a 5- component acellular and a whole-cell pertussis vac­cine. New England Journal of Medicine, 1996, 334:349–355.
  10. McVernon J, Andrews N, Slack M, Ramsay ME. Risk of vaccine failure after Haemo­philus influenzae type b (Hib) combination vaccines with acellular pertussis. Lancet, 2003, 361:1521–1523.
Tin tức liên quan