- Article
- Source: Campus Sanofi
Biến Cố Do Suy Tim Và Gánh Nặng Thuyên Tắc Huyết Khối Tĩnh Mạch
.png/jcr:content/1920%20X%20565%20(10).png)
Suy tim là một bệnh lý rất thường gặp và là hậu quả của nhiều bệnh tim mạch. Có hơn 26 triệu người trên toàn thế giới mắc bệnh suy tim.1 Tại Việt Nam, cứ khoảng 7 bệnh nhân nhập viện thì có 1 ca suy tim.2 Hơn hết, nhập viện do suy tim không chỉ làm tăng nguy cơ các biến cố tim mạch và đột quỵ do thiếu máu cục bộ mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE) ngắn và dài hạn. Đặc biệt, những bệnh nhân nhập viện do suy tim cấp có nguy cơ cao VTE trong thời gian ngắn do bất động kéo dài và tình trạng tăng đông máu. Do vậy, đây là một vấn đề quan trọng cần được quan tâm đúng mức trên những bệnh nhân suy tim.

Một nghiên cứu đã được thực hiện nhằm cung cấp góc nhìn rõ hơn về vấn đề được nêu trên cho thấy:
- Biến cố suy tim làm tăng hơn 3 lần nguy cơ VTE tổng hợp, tăng hơn 2 lần nguy cơ VTE cho tất cả phân nhóm.
- VTE ở bệnh nhân suy tim xảy ra với tỷ lệ cao hơn so với bệnh nhân không suy tim.
Ở bệnh nhân không suy tim, độ dày thành thất trái trung bình/ tương đối là yếu tố tiên lượng VTE sau khi đã hiệu chỉnh các yêu tố nhiễu.

Từ những thông tin trên, các chuyên gia y tế có thể thấy được rằng bệnh lý suy tim có liên quan mật thiết đến việc tăng nguy cơ mắc VTE lâu dài ở bệnh nhân. Do đó, trong quá trình điều trị bệnh suy tim, quý y, bác sĩ, dược sĩ cần có một sự quan tâm đúng mực đến bệnh lý thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch. Từ đó có thể đưa ra được phác đồ điều trị và phòng ngừa hợp lý trên nhóm bệnh nhân này.
VTE: thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch, DVT: huyết khối tĩnh mạch sâu, PE: thuyên tắc phổi.
- Savarese G, Lund LH. Global Public Health Burden of Heart Failure. Card Fail Rev. 2017;3(1):7-11.
- Reyes E.B. Heart failure across Asia: same healthcare burden but differences in organization of care. Int. J. Cardiol.2016;223:163–167.
- Fanola CL, Norby FL, Shah AM, et al. Incident Heart Failure and Long-Term Risk for Venous Thromboembolism. J AmColl Cardiol. 2020;75(2):148-158.