Skip To Main Content
  • Article
  • Source: Campus Sanofi

Dự Phòng Huyết Khối Tĩnh Mạch Trên Bệnh Nhân Có Bệnh Lý Cấp Tính

Những lợi ích của việc dự phòng huyết khối tĩnh mạch trên nhóm bệnh nhân nội trú có bệnh lý cấp tính nặng đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu khác nhau. Vậy, đối với những bệnh nhân sau khi xuất viện thì sao? Liệu việc dự phòng huyết khối cho những bệnh nhân này có cần thiết hay không?

Thông qua một vài nghiên cứu, các chuyên gia đã chứng minh được rằng các bệnh nhân sau khi xuất viện vẫn có nguy cơ tiếp tục xảy ra biến cố. Nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE) liên quan đến bệnh viện có thể kéo dài đến 6 tuần sau khi xuất viện. Hơn 60% biến cố VTE xảy ra trong giai đoạn sau khi xuất hiện và nguy cơ tử vong do thuyên tắc phổi tăng gấp 5 lần trong 3 tuần đầu tiên. Do đó, việc dự phòng huyết khối tĩnh mạch ở nhóm bệnh nhân này là vô cùng cần thiết. Vậy phương pháp để điều trị dự phòng trên nhóm đối tượng bệnh nhân này là gì?

Sự cần thiết của việc dự phòng huyết khối tĩnh mạch trên bệnh nhân mắc các bệnh lý nghiêm trọng

Khi so sánh giữa phương pháp dự phòng ngắn hạn và dự phòng kéo dài, sử dụng heparin trọng lương phân tử thấp (LMWH) hay các thuốc chống đông đường uống ức chế trực tiếp yếu tố Xa. Có thể thấy rằng liệu pháp dài hạn giúp giảm thiểu nguy cơ mắc huyết khối tĩnh mạch, tuy nhiên bệnh nhân lại phải đối diện với nguy cơ xuất huyết nặng tăng gấp đôi. Vì thế việc lựa chọn, đánh giá bệnh nhân rất quan trọng. Các nghiên cứu và khuyến cáo cũng đã chứng minh phương pháp dự phòng ngắn hạn được ưu tiên hơn là dự phòng kéo dài – phương pháp chỉ phù hợp với một nhóm bệnh nhân nhất định. Và thách thức mà nhân viên y tế gặp phải là cân nhắc giữa nguy cơ huyết khối và chảy máu, từ đó lựa chọn phương pháp thích hợp cho từng cá thể bệnh nhân. Các yếu tố nguy cơ mà bệnh nhân có thể có bao gồm:

  • Yếu tố nguy cơ khởi phát (tình trạng cấp hoặc chấn thương, phẫu thuật): phẫu thuật, chấn thương, bệnh lý cấp tính, suy tim cấp**, suy hô hấp cấp, đặt catheter tĩnh mạch trung tâm, ung thư, các bệnh lý viêm.
  • Yếu tố nguy cơ dẫn dắt (đặt điểm bệnh nhân): tiền sử thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch, suy tim mạn, bệnh nhân cao tuổi, suy giãn tĩnh mạch, béo phì, bất động hoặc liệt nhẹ, rối loạn tăng sinh tủy, chu kỳ kinh nguyệt/giai đoạn chu sản, ung thư, các bệnh lý viêm.
Các yếu tố nguy cơ cần cân nhắc trên bệnh nhân

Trong tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp như hiện tại, tình trạng mắc COVID – 19 ở bệnh nhân cũng cần được quan tâm, do ảnh hưởng của virus SARS – COV – 2 lên huyết khối từ đó cũng ảnh hưởng đến việc dự phòng huyết khối trên bệnh nhân.

Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy rằng Heparin trọng lượng phân tử thấp (LMWH) được ưu tiên sử dụng để dự phòng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch trong hầu hết các trường hợp.

Các phác đồ dự phòng huyết khối tĩnh mạch và thuốc ưu tiên sử dụng

Tóm lại, dự phòng huyết khối tĩnh mạch ở bệnh nhân mắc các bệnh lý nặng sau khi xuất viện là việc cần được các y, bác sĩ, dược sĩ cân nhắc trong quá trình điều trị của mình. Quyết định lựa chọn các phương pháp đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng giữa các yếu tố nguy cơ gây huyết khối hoặc xuất huyết trên từng cá thể bệnh nhân. Và trong đa số trường hợp, LMWH luôn là lựa chọn đầu tay mà quý y, bác sĩ nên cân nhắc trên nhóm bệnh nhân này.

Ghi Chú:

#Khuyến cáo phác đồ huyết khối liều chuẩn đối với bệnh nhân không mắc bệnh nặng có nhập viện
*Chưa xác định số lượng tiểu cầu
**Phân loại III và IV của Hiệp hội Tim New York

ACCP: Trường môn Bác sĩ Lồng ngực Hoa Kỳ; ACF: Diễn đàn Chống đông máu; ASH: Hiệp hội Huyết học Hoa Kỳ; CDC: Các trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ; LMWH: heparin trọng lượng phân tử thấp; ISTH-IG: hướng dẫn tạm thời của Hiệp hội Đông máu và Tắc mạch quốc tế; SC: tiêm dưới da; SCC-ISTH: Ủy ban Khoa học và Tiêu chuẩn của ISTH; UFH: heparin không phân đoạn

  1. Flaczyk A, et al. Crit Care. 2020;24(1):559.
  2. Geerts WH, et al. Chest 2004; 126(3 Suppl):338S-400S.
Tin tức liên quan
Code : MAT – VN – 2100115 – 1.0 – 01/2021; Ehat sponsor : VN20001134