Skip To Main Content
  • Article
  • Source: Campus Sanofi

Kết Cục Thuyên Tắc Huyết Khối Tĩnh Mạch: U Máu Ác Tính So Với Khối U Đặc

Kết cục thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch liên quan đến ung thư ở bệnh nhân có bệnh máu ác tính so với bệnh nhân có khối u đặc

Trong quá trình điều trị bằng chống đông máu, bệnh nhân thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE) và ung thư máu, đặc biệt là đa u tủy xương có tỷ lệ mắc VTE tái phát, xuất huyết nặng và tỷ lệ tử vong chung thấp hơn so với bệnh nhân có khối u đặc.

Những điểm chính cần lưu ý

  • Theo nghiên cứu RIETE, một nghiên cứu thuần tập lớn gồm những bệnh nhân mắc VTE liên quan đến bệnh máu ác tính và khối u đặc:
    • Bệnh nhân huyết học có tỷ lệ mắc VTE tái phát, xuất huyết nặng và tỷ lệ tử vong chung thấp hơn so với bệnh nhân có khối u đặc
    • Trong số các bệnh máu ác tính, kết cục tốt nhất được đặc biệt ghi nhận ở bệnh nhân bị đau tủy
  • Cần có thêm các nghiên cứu cụ thể tập trung vào thuyên tắc huyết khối liên quan đến ung thư ở bệnh nhân ung thư máu.

Tại sao điều này lại quan trọng

  • Diễn biến tự nhiên của VTE liên quan đến ung thư, liên quan đến tái phát, xuất huyết hoặc tử vong, có thể khác nhau tùy theo vị trí ung thư.
  • Kết cục ở bệnh nhân bị ung thư máu và mắc VTE không rõ ràng vì những bệnh nhân này ít hiện diện trong các thử nghiệm lâm sàng then chốt trong điều trị VTE liên quan đến ung thư.
  • RIETE là một sổ bộ quốc tế đa trung tâm hoạt động thường xuyên ghi nhận dữ liệu (bao gồm các đặc điểm lâm sàng, điều trị và kết cục) ở bệnh nhân được chẩn đoán mắc VTE.
  • Nghiên cứu này so sánh kết cục của bệnh nhân mắc VTE liên quan đến ung thư máu so với khối u đặc.

Thiết kế nghiên cứu

  • Tiêu chuẩn lựa chọn: Bệnh nhân có ung thư đang tiến triển và mắc VTE cấp tính được đưa vào cơ sở dữ liệu của sổ bộ RIETE cho đến tháng 12/2020
  • Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân đang tham gia thử nghiệm ngẫu nhiên điều trị bằng thuốc được làm mù và bệnh nhân ung thư da không u sắc tố
  • Tiêu chí chính: (1) Tỷ lệ tái phát VTE có triệu chứng được xác nhận một cách khách quan; (2) tỷ lệ biến cố xuất huyết nặng; (3) tỷ lệ tử vong chung và tỷ lệ tử vong liên quan đến VTE

Kết quả chính

  • Tính đến tháng 12/2020, có 16.694 bệnh nhân ung thư đang diễn biến (1.062 [6,4%] ung thư máu) và mắc VTE được đưa vào nghiên cứu.
  • Bệnh nhân bị ung thư máu (so với u đặc) ban đầu ít có khả năng bị thuyên tắc phổi (PE; 46% so với 55%), và nhiều khả năng bị thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch sâu chi trên (DVT; 25% so với 18%), giảm tiểu cầu nặng (6,8% so với 5,1%) lúc ban đầu hoặc được hóa trị (67% so với 41%).
  • Heparin trọng lượng phân tử thấp được chỉ định cho liệu pháp khởi đầu (7–10 ngày đầu) và kéo dài ở hầu hết các bệnh nhân trong cả hai phân nhóm
  • Trong khi điều trị bằng thuốc chống đông máu (150 so với 127 ngày; P <0,001), 6,4% bệnh nhân tái phát VTE có triệu chứng (PE tái phát: 2,9%; DVT tái phát: 3,5%), 4,8% xuất huyết nặng (tiêu hóa: 2,1% ; nội sọ: 0,8%); và 24,8% bệnh nhân tử vong (PE tử vong: 1,4%; xuất huyết dẫn đến tử vong: 0,5%).
  • Bệnh nhân bị ung thư máu so với u đặc có tỷ lệ thấp hơn như sau:
    • VTE tái phát: 7,67 (khoảng tin cậy 95% [KTC]: 5,82–9,92) so với 10,5 (KTC 95%: 9,89–11,2) biến cố trên 100 bệnh nhân-năm, tỷ số nguy cơ (RR) = 0,73 (KTC 95%: 0,56–0,95); P = 0,009
    • Xuất huyết nặng: 5,69 (KTC 95%: 4,12–7,66) so với 7,93 (KTC 95%: 7,37–8,51) biến cố trên 100 bệnh nhân-năm, RR = 0,72 (KTC 95%: 0,53–0,98); P = 0,017
    • Tử vong do mọi nguyên nhân: 20,1 (KTC 95%: 17,0–23,6) so với 41,4 (KTC 95%: 40,1–42,7) biến cố trên 100 bệnh nhân-năm, RR = 0,49 (KTC 95%: 0,41–0,57); P <0,001
  • Hai nhóm cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về PE gây tử vong hoặc xuất huyết dẫn đến tử vong.
    • Trong cả hai phân nhóm, tỷ lệ xuất huyết nặng ban đầu vượt quá tỷ lệ VTE tái phát, nhưng điều ngược lại được quan sát thấy sau 6 tháng.
  • Trong phân tích đa biến, bệnh nhân ung thư máu có nguy cơ tử vong thấp hơn (tỷ lệ nguy hại đã điều chỉnh [aHR]: 0,53; KTC 95%: 0,43–0,66; P <0,001).
  • Phân tích rủi ro cạnh tranh: Giảm nguy cơ gộp gồm tái phát VTE hoặc xuất huyết nặng trong ung thư máu (aHR: 0,78; KTC 95%: 0,64–0,96; P <0,001)
  • Trong các bệnh nhân với các loại ung thư huyết học khác nhau (u lympho, đa u tủy xương, hoặc các bệnh máu ác tính khác), chỉ có đa u tủy xương có tỷ lệ mắc VTE tái phát, xuất huyết nặng và tỷ lệ tử vong nói chung thấp hơn so với bệnh nhân có u đặc.
  • Tỷ lệ tử vong ở ba phân nhóm này thấp hơn nhiều so với những bệnh nhân bị khối u đặc.
  • Bệnh nhân u máu ác tính có tỷ lệ kết cục tương tự so với u đặc không di căn, nhưng thấp hơn đáng kể so với u đặc di căn.

Những hạn chế

  • Vì RIETE là một nghiên cứu sổ bộ quan sát, bệnh nhân không được điều trị theo phác đồ chuẩn.
  • Sổ bộ RIETE chỉ ghi nhận các trường hợp VTE tái phát có triệu chứng.
  • Việc thiếu ủy ban phân xử trung ương, dẫn đến rủi ro ước tính quá cao hoặc quá thấp đối với một số tiêu chí
  • Thông tin về quyết định thời gian điều trị kháng đông không được cung cấp.
  • Thiếu dữ liệu chính xác về giai đoạn ung thư.

  1. Lecumberri R, Ruiz-Artacho P, Tzoran I, Brenner B, Farge Bancel D, Ay C, et al. Outcome of cancer-associated venous thromboembolism is more favorable among patients with hematologic malignancies than in those with solid tumors. Thromb Haemost. 2022. doi: 10.1055/a-1777-4006. Epub ahead of print. PMID: 35189661.
Tin tức liên quan
MAT-VN-2201722