Sử dụng các mô hình đánh giá nguy cơ và dự phòng thuyên tắc huyết khối ở bệnh nhân nhập viện có bệnh lý nội khoa trên toàn cầu: Bản cập nhật từ ban chỉ đạo Ngày Huyết khối Thế giới
Đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp cho thấy rằng thuốc chống đông máu có hiệu quả và an toàn để phòng ngừa thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE); tuy nhiên, việc kê đơn thuốc dự phòng thuyên tắc huyết khối vẫn chưa đạt mức yêu cầu đối với bệnh nhân nhập viện có bệnh lý nội khoa trên toàn cầu, có sự khác biệt rõ rệt về mặt địa lý.
Những điểm chính cần lưu ý
Bản đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp các nghiên cứu toàn cầu chỉ ra rằng:
Ngược lại với các đề xuất trong hướng dẫn, tần suất kê đơn thuốc dự phòng thuyên tắc huyết khối vẫn không đạt yêu cầu ở những bệnh nhân nhập viện có bệnh lý nội khoa
Việc dự phòng thuyên tắc huyết khối thỏa đáng có sự khác nhau rõ rệt giữa các vùng địa lý
Không có sai lệch lớn nào được ghi nhận giữa các mô hình đánh giá nguy cơ
Các lý do phổ biến nhất cho việc không sử dụng thuốc dự phòng thuyên tắc huyết khối: Đang xuất huyết hoặc có nguy cơ xuất huyết cao, bao gồm giảm tiểu cầu và rối loạn chức năng thận hoặc gan
Thang điểm Padua Prediction và tiêu chí của Trường Đại học Bác sĩ Lồng ngực Hoa Kỳ (ACCP) là thang điểm thường được sử dụng nhất, tiếp theo là thang điểm Caprini và Geneva
Ngày Huyết khối Thế giới đóng vai trò trong việc nâng cao nhận thức về VTE và giảm gánh nặng bệnh tật.
Tại sao điều này lại quan trọng
VTE là nguyên nhân hàng đầu của bệnh tật và tử vong do tim mạch.
Vào năm 2008, nghiên cứu ENDORSE đã báo cáo về tỷ lệ đáng kể bệnh nhân nhập viện có nguy cơ cao nhưng ít sử dụng thuốc dự phòng thuyên tắc huyết khối thích hợp.
Đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp này nhằm cung cấp số liệu cập nhật về việc sử dụng thuốc dự phòng thuyên tắc huyết khối và sử dụng mô hình đánh giá nguy cơ ở bệnh nhân bị bệnh nặng trong thời gian nhập viện.
Thiết kế nghiên cứu
Chiến lược tìm kiếm: Các thử nghiệm, nghiên cứu thuần tập, nghiên cứu bệnh chứng và khảo sát (không giới hạn ở tiếng Anh) từ thập kỷ trước (2010)) đã được tìm kiếm trong cơ sở dữ liệu PubMed và Web of Science
Tiêu chí lựa chọn: (a) Các nghiên cứu hoặc khảo sát quan sát không ngẫu nhiên tập trung vào bệnh nhân có bệnh lý (ví dụ, người nhập viện vì tình trạng bệnh lý nội khoa, không phẫu thuật); và (b) báo cáo việc sử dụng phổ biến các mô hình đánh giá nguy cơ (với số bệnh nhân cho mỗi nhóm nguy cơ) và dự phòng thuyên tắc huyết khối
Kết cục: (a) Bệnh nhân có chỉ định dự phòng thuyên tắc huyết khối dựa trên mô hình đánh giá nguy cơ cá nhân hoặc phân loại; (b) việc sử dụng thuốc dự phòng thuyên tắc huyết khối; và (c) lý do không dùng thuốc dự phòng thuyên tắc huyết khối ở bệnh nhân có chỉ định khác
Kết quả chính:
Tổng cộng có 27 nghiên cứu từ 20 quốc gia (N = 137.288 bệnh nhân).
Mô hình sử dụng: Thang điểm Dự đoán Padua (10 nghiên cứu, n = 71.649); Bảng khuyến cáo từ hướng dẫn ACCP (10 nghiên cứu, n = 4914); Thang điểm Caprini (7 nghiên cứu, n = 61.258); và thang điểm Geneva (1 nghiên cứu, n = 1478)
Dựa trên các mô hình này, 50,5% (khoảng tin cậy 95% [CI]: 41,9–59,1, I2 = 99%) bệnh nhân nhập viện vì bệnh lý nội khoa có nguy cơ VTE cao.
Nhìn chung, 54,5% (KTC 95%: 46,2–62,6, I2 = 99%) bệnh nhân có nguy cơ VTE cao được sử dụng đầy đủ thuốc dự phòng thuyên tắc huyết khối.
Tần suất sử dụng thuốc dự phòng thuyên tắc huyết khối tương tự nhau giữa các nhóm: 56,9% (KTC 95%: 39,6–73,4, I2 = 99%) đối với thang điểm Dự đoán Padua, 53,8% (KTC 95%: 40,1–67,2, I2 = 98%) đối với tiêu chí ACCP và 50,5% (KTC 95%: 29,4–71,5, I2 = 99%) đối với thang điểm Caprini
Nhìn chung, 14 nghiên cứu báo cáo về tần suất chống chỉ định tương đối và tuyệt đối với thuốc dự phòng thuyên tắc huyết khối.
Xuất huyết đang tiến triển được xem là chống chỉ định trong tất cả các nghiên cứu.
Tiếp theo sau xuất huyết đang tiến triển, chống chỉ định phổ biến nhất là giảm tiểu cầu.
Rối loạn đông máu được báo cáo là chống chỉ định trong 7/11 nghiên cứu.
Trong 5 nghiên cứu, bệnh nhân suy thận không được dự phòng thuyên tắc huyết khối.
Những hạn chế
Phân tích chỉ bao gồm các nghiên cứu quan sát.
Một số nghiên cứu quan trọng có thể không được đưa vào.
Các phương pháp đánh giá nguy cơ mắc VTE rất đa dạng và khác nhau.
Ngưỡng cutoff cho VTE nguy cơ cao và các tiêu chí loại trừ không được thống nhất.
Sự bất đồng nhất cao về mặt thống kê và lâm sàng đã được quan sát thấy qua các nghiên cứu.
Forgo G, Micieli E, Ageno W, Castellucci LA, Cesarman-Maus G, Ddungu H, et al. An update on the global use of risk assessment models and thromboprophylaxis in hospitalized patients with medical illnesses from the World Thrombosis Day steering committee: Systematic review and meta-analysis. J Thromb Haemost. 2022;20(2):409–421. doi: 10.1111/jth.15607. PMID: 34822215.