- Article
- Source: Campus Sanofi
Thuyên Tắc Huyết Khối Tĩnh Mạch Trên Bệnh Nhân Ung Thư: Chúng Ta Thấy Gì Qua Kết Quả Nghiên Cứu FRONTLINE 2
.png/jcr:content/1920%20X%20565%20(5).png)
Mặc dù, bệnh nhân ung thư là đối tượng có nguy cơ gặp phải bệnh lý thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE) cao. Tuy nhiên, việc quản lý và phòng ngừa VTE trên những bệnh nhân này vẫn còn gặp nhiều khó khăn dù cho các Hướng dẫn, khuyến cáo sử dụng thuốc kháng đông ngày càng được phổ biến hơn. Nhân biết được điều này, nghiên cứu Frontline 2* đã được tiến hành nhằm giúp cải thiện hiệu quả điều trị cho những bệnh nhân ung thư đang được điều trị nội khoa lẫn ngoại khoa.
Nghiên cứu này khảo sát 5233 bác sĩ chuyên khoa ung bướu có điều trị huyết khối liên quan tới ung thư. Thông qua một bảng khảo sát có 5 phần; mỗi phần có 10 – 20 câu hỏi có nhiều câu hỏi nhỏ. Và thông qua đó, nghiên cứu này đã chỉ ra rằng:
Hai yếu tố quan trọng trong quản lý huyết khối liên quan tới nhóm bệnh nhân này gồm:
- Hiểu biết của chuyên gia y tế
- Mong muốn của bệnh nhân

Trong nghiên cứu này, các chuyên gia cho rằng:
- Dưới 20% bệnh nhân ung thư có nguy cơ VTE – Nguy cơ này cao hơn ở bệnh nhân có tổn thương não, tụy và phổi.
- Tỉ lệ VTE cao nhất ở 3 loại ung thư não, phổi và tụy.
Đối với những bệnh nhân ung thư phải phẫu thuật, nghiên cứu này cho thấy LMWH là thuốc thường được sử dụng để dự phòng huyết khối tĩnh mạch (74.2% so với UFH chỉ chiếm 21.9%). Các thuốc kháng đông đường uống nếu cần thiết có thể được dùng kèm theo có thể kể đến như là Aspirin (20.6%), Warfarin và DOAC (18.8%). Các nguyên nhân cần tiến hành dự phòng bao gồm:
- Tiền sử thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (74.6%).
- Bệnh lý tăng đông/tăng tiểu cầu (62%).

Sau phẫu thuật, các bệnh nhân được sử dụng các liệu pháp dự phòng trong 1 tháng chiếm 32%, 3 tháng chiếm 3% và vô thời hạn là 7.3%.
Đối với nhóm bệnh nhân ung thư điều trị nội khoa. Thuốc dùng để dự phòng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch thường được các chuyên gia y tế sử dụng vẫn là LMWH (80.6% so với UFH chỉ chiếm 21.7%) và các nguyên nhân để các chuyên gia y tế cần tiến hành dự phòng là:
- Tiền sử thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch
- Bệnh nhân có nguy cơ cao

Để điều trị VTE trên cả hai nhóm bệnh nhân này. Các chuyên gia y tế có thể lựa chọn sử dụng giữa Heparin (LMWH hoặc UFH) hoặc thuốc kháng đông đường uống (kháng vitamin K hoặc thuốc kháng đông trực tiếp đường uống) để khởi đầu. Sau đó, duy trì điều trị bằng các thuốc kháng đông đường uống (OACs) như là:
- Warfarin
- Dabigatran
- Rivaroxaban
Và thời gian tối ưu để điều trị kháng đông dài hạn thường là 3 – 6 tháng.

Nghiên cứu Frontline 2 đã cho thấy được tần suất dịch tễ của VTE cũng như chiến lược dự phòng và điều trị trên nhóm bệnh nhân ung thư đang được điều trị. Từ đó, các chuyên gia y tế có thể lựa chọn được các biện pháp điều trị giúp cải thiện và nâng cao chất lượng sống ở bệnh nhân.
Ghi Chú:
*Nghiên cứu Frontline 2: Fundamental Research in Oncology and Thrombosis 2.
TTHKTM: thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch; LMWH: heparin trọng lượng phân tử thấp; OACs: thuốc kháng đông đường uống; DOACs: thuốc kháng đông trực tiếp đường uống; UFH: heparin không phân đoạn.
- Kakkar AK, Bauersachs R, Falanga A, et al. Fundamental Research in Oncology and Thrombosis 2 (Frontline 2): A Follow‐Up Survey. The Oncologist. 2020;25(7).
VN20001134