- Article
- Source: Campus Sanofi
Quan Điểm Của WHO Về Vắc Xin Bạch Hầu, 8/2017 - Phần 1: Dịch Tễ Học

28-10-2020
1. Bối cảnh
1.1. Dịch tễ
Trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, bệnh bạch hầu là một trong những căn bệnh truyền nhiễm đáng sợ nhất. Nó đã gây ra rất nhiều đợt dịch tàn khốc trên toàn cầu mà đối tượng bị ảnh hưởng đa phần là trẻ em. Trong các đợt dịch bạch hầu lớn tại Châu Âu và Hoa Kỳ vào thập niên 1880, tỷ lệ tử vong do bệnh bạch hầu lên đến 50% ở một số khu vực. Tỷ lệ tử vong do bạch hầu ở Châu Âu giảm xuống còn 15% trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất phần lớn là nhờ việc sử dụng rộng rãi phương pháp điều trị kháng độc tố bạch hầu.Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, dịch bạch hầu đã tàn phá Châu Âu, gây ra khoảng 1 triệu ca mắc mới với 50.000 ca tử vong vào năm 1943. Các loại vắc xin giải độc tố bạch hầu xuất hiện trên thị trường Châu Âu và Bắc Mỹ vào những năm cuối thập niên 40 và được chứng minh là làm giảm các đợt bùng phát dịch trên nhóm dân số được tiêm ngừa. Trong thập niên 70, trước khi vắc xin bạch hầu trở nên phổ cập và được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu, ước tính có khoảng một 1 triệu ca mắc mới trong đó bao gồm 50000 -60000 ca tử vong hằng năm ở các nước thu nhập trung bình thấp.
Sau khi chương trình Tiêm chủng Mở rộng (EPI) được triển khai vào năm 1974 với vắc xin bạch hầu là 1 trong 6 vắc xin nằm trong chương trình, tỷ lệ mắc bạch hầu đã giảm đáng kể trên toàn thế giới. Tổng số ca mắc bạch hầu được báo cáo đã giảm >90% trong giai đoạn 1980 - 2000.
Lần bùng phát dịch lớn nhất đươc ghi nhận gần đây xảy ra tại Liên bang Nga và các nước Cộng hòa thuộc khối Liên Xô cũ vào thập niên 90. Có hơn 157 000 ca mắc và 5000 ca tử vong được ghi nhận trong giai đoạn 1990 - 1998. Bệnh bạch hầu vẫn là một vấn đề sức khỏe đáng quan tâm tại những quốc gia có tỷ lệ tiêm chủng thường quy thấp. Số ca bạch hầu được báo cáo hằng năm (được khẳng định trên lâm sàng, cận lâm sàng hoặc có yếu tố dịch tễ) hầu như không thay đổi trong 11 năm qua. Theo như ước tính mới nhất, 86% trẻ em trên toàn thế giới được tiêm ba liều vắc-xin phòng bệnh bạch hầu theo đúng khuyến cáo trong lịch tiêm chủng dành cho trẻ nhũ nhi, còn lại 14% trẻ hoàn toàn không được tiêm ngừa hoặc tiêm ngừa không đầy đủ. Như vậy, vẫn còn một số ít trẻ em chưa được tiêm chủng ở tất cả các quốc gia. Tỉ lệ tử vong trên 10% được ghi nhận ở những nơi chưa có DAT. Ở những vùng ôn đới, hầu hết các ca bệnh xảy ra vào mùa lạnh, trong khi ở những vùng có khí hậu ấm hơn thì bệnh xảy ra quanh năm. Từ năm 2011 đến năm 2015, Ấn Độ có tổng số ca mắc bạch hầu được báo cáo hằng năm cao nhất, với 18 350 ca trong 5 năm, tiếp theo là Indonesia với 3203 ca và Madagascar với 1633 ca. Khu vực Đông Nam Á chiếm tới 55 -99% tổng số ca mắc được báo cáo mỗi năm trong giai đoạn này. Phân tích còn chỉ ra rằng có một số lượng lớn ca nhiễm chưa được báo cáo cho WHO, chủ yếu là ở Châu Phi và khu vực Đông Địa Trung Hải. Như vậy, gánh nặng bệnh tật thực tế cao hơn những con số được ghi nhận.

Một đánh giá gần đây về dịch tễ bệnh bạch hầu cho thấy trong số những ca có thông tin về tuổi, sự phân bố bệnh theo độ tuổi có sự thay đổi, phần lớn các ca nhiễm xảy ra ở thanh thiếu niên và người trưởng thành. Điều này phản ánh sự giảm tỷ lệ mắc ở trẻ em do tỷ lệ trẻ được tiêm chủng ngày càng tăng. Tại những nước có tỷ lệ mắc cao ( ≥10 ca mắc trong ≥3 năm trong giai đoạn 2000–2015), 40% có độ tuổi >15 tuổi trong khi ở các nước có tỷ lệ mắc bệnh thấp (<10 ca mắc trong ≥3 năm trong giai đoạn 2000–2015) thì 66% trường hợp có độ tuổi >15 tuổi. Trong số những ca nhiễm đã biết tình trạng tiêm chủng, đa số là những trẻ hoàn toàn không được tiêm chủng, nhóm trẻ tiêm chủng không đẩy đủ chiếm tỉ lệ thấp hơn và rất ít trường hợp được tiêm ≥5 liều vắc xin.
Sau khi triển khai tiêm chủng các mũi tiêm cơ bản phòng bệnh bạch hầu ở trẻ em vùng dịch tễ, đã có hai giai đoạn dịch tễ được ghi nhận. Ở giai đoạn đầu, tỷ lệ mắc bệnh thay vì được ghi nhận chủ yếu ở nhóm tuổi mẫu giáo thì nay nhóm trẻ trong độ tuổi đi học lại có tỉ lệ phần trăm mắc bệnh cao hơn. Ở giai đoạn thứ hai, các ca bệnh chủ yếu xảy ra ở thanh thiếu niên và thanh niên. Các ca nhiễm ở trẻ nhũ nhi dưới sáu tháng rất hiếm do sự hiện diện của kháng thể của mẹ trong cơ thể trẻ. Trong kỉ nguyên khi chưa có vắc xin, không có sự khác biệt về giới tính trong tỷ lệ mắc. Tuy nhiên, trong một vài đợt dịch bùng phát vào thập niên 1940, trong số những người trưởng thành mắc bệnh, tỷ lệ mắc ở nữ cao hơn ở nam. Điều tương tự cũng được ghi nhận trong đợt bùng phát dịch tại Liên Xô cũ vào thâp niên 1990. Sự không cân bằng giới tính trong tỷ lệ mắc bệnh bạch hầu cho thấy nam giới ít mắc bệnh hơn do họ được tiêm chủng khi tham gia nghĩa vụ quân sự đồng thời nam giới cũng thường được tiêm ngừa mũi kết hợp bạch hầu – uốn ván hơn nữ giới do họ thường bị chấn thương hơn.
Việc kiểm soát bệnh bạch hầu dựa trên dự phòng cấp 1 bằng cách đảm bảo miến dịch cao trong cộng đồng nhờ tiêm chủng, và dự phòng cấp 2 bằng cách điều tra nhanh chóng những người tiếp xúc gần với bệnh nhân để đảm bảo điều trị ngay lập tức những ca nhiễm bệnh.
(*) theo Hội Y học Dự phòng Việt Nam