Skip To Main Content
  • Article
  • Source: Campus Sanofi

Quan Điểm Của WHO Về Vắc Xin Bạch Hầu, 08/2017 – Phần 6: Thời Gian Bảo Vệ Và Yêu Cầu Tiêm Nhắc Ở Trẻ Em – Tính An Toàn Của Vắc Xin

04-03-2021

2. Vắc xin Bạch Hầu

2.3. Thời gian bảo vệ và yêu cầu về mũi tiêm nhắc ở trẻ em

Trong trường hợp không có sự phơi nhiễm tự nhiên, có vai trò như một lần tiêm nhắc, dữ liệu chỉ ra rằng khả năng miễn dịch sau khi tiêm vắc xin cơ bản 3 liều sẽ suy yếu theo thời gian.7, 8 Vì vậy, cần có các mũi tiêm nhắc để đảm bảo tiếp tục sự bảo vệ. Tuy nhiên, số mũi tiêm nhắc tối ưu cần thiết và khoảng cách giữa các mũi tiêm vẫn chưa được xác định rõ. Một đánh giá hệ thống cho thấy các dữ liệu hiện có về thời gian hiệu quả bảo vệ và/ hoặc tính sinh miễn dịch của lịch tiêm 3 liều cơ bản cộng với 3 liều tiêm nhắc cho đến khi trưởng thành vẫn còn hạn chế.37 Dữ liệu về thời gian kéo dài của huyết thanh bảo vệ từ 2 nghiên cứu dân số đại diện lớn từ Hà Lan, 38  tiêm 3 mũi cơ bản hoàn chỉnh cộng với 3 mũi tiêm nhắc trước tuổi vị thành niên, chỉ ra rằng lịch tiêm này giúp tạo ra tỉ lệ huyết thanh bảo vệ rất cao trên ngưỡng bảo vệ cơ bản (≥0,01 IU / mL) cho đến 39 tuổi và có khả năng lâu hơn. 4 mũi đầu tiên trong loạt mũi tiêm ngừa có dược lực > 60 IU, trong khi 2 mũi cuối cùng có dược lực> 5 IU. Tỉ lệ huyết thanh lưu hành 94,6% (KTC 95%: 87,3–100%) trên ngưỡng bảo vệ cơ bản đã được quan sát thấy ngay cả ở nhóm tuổi 35–39. Tỉ lệ huyết thanh lưu hành là 37,8% (KTC 95%: 22,2–53,5%) trên ngưỡng bảo vệ đầy đủ (0,1 IU / mL) được quan sát thấy ở nhóm tuổi 35–39 tuổi. Với số lượng các trường hợp mắc bệnh bạch hầu được báo cáo ở Hà Lan thấp và tỷ lệ tiêm chủng cao trong những năm qua, có thể giả định rằng cơ hội phơi nhiễm với bệnh để tạo ra miễn dịch nhắc tự nhiên là rất thấp. Do đó, mức độ miễn dịch bảo vệ cao quan sát được có thể là do lịch tiêm chủng 6 liều được sử dụng trong nước. Những dữ liệu này chỉ ra rằng theo lịch trình 3 mũi tiêm cơ bản cộng với 3 mũi tiêm nhắc, việc tiêm nhắc mỗi 10 năm có thể không cần thiết cho đến tuổi trung niên.39 

Trong số những phụ nữ được tiêm đầy đủ các mũi cơ bản chứa DTP (3 mũi) ở Bồ Đào Nha trong thời thơ ấu và ít nhất một mũi tiêm nhắc (n = 22), không ai nhạy cảm với bệnh trong vòng 25 năm kể từ mũi tiêm ngừa cuối cùng. Tất cả những người đã tiêm ít nhất 6 mũi (n = 17) đều có nồng độ kháng thể chống bệnh bạch hầu trên ngưỡng bảo vệ hoàn toàn lên đến 38 năm kể từ mũi tiêm ngừa cuối cùng.40 Một nghiên cứu cắt ngang về huyết thanh lưu hành ở một Tiểu bang ở Hoa Kỳ xây dựng mô hình thời gian bán hủy của miễn dịch đặc hiệu với bệnh bạch hầu (> 0,01 IU / mL) là 27 năm (KTC 95%: 18–51 tuổi) .41 Dữ liệu từ Vương quốc Anh cho thấy nồng độ kháng thể tốt ở những người từ 16–34 tuổi vào năm 2009, trong đó hầu hết đã được tiêm 5 mũi vắc xin giải độc tố bạch hầu theo khuyến cáo hiện nay với mũi tiêm cuối cùng trong thời kỳ thanh thiếu niên (nồng độ trung bình nhân 0,15 IU / mL) .42 Tương tự, dữ liệu từ Singapore cho thấy huyết thanh bảo vệ bạch hầu lưu hành ở người từ 6 đến > 40 tuổi là 96 %.43

 Các nghiên cứu huyết thanh học chỉ ra rằng ở một số nơi, tỷ lệ người lớn dễ mắc bệnh bạch hầu khá cao. Tuy nhiên, lịch tiêm chủng khác nhau ở trẻ em, tiêm nhắc trong thời gian nhập ngũ, tác động của việc tiếp xúc tự nhiên với vi khuẩn C. diphtheriae gây bệnh, cũng như sự khác biệt về phương pháp huyết thanh học, khiến việc so sánh quốc tế của các dữ liệu đó trở nên phức tạp.

2.3. Tính an toàn của vắc xin

Vắc xin giải độc tố bạch hầu là một trong những loại vắc xin an toàn nhất hiện có. Các phản ứng nghiêm trọng là rất hiếm và cho đến nay không có phản ứng phản vệ nào do thành phần bạch hầu được mô tả. Tuy nhiên, các phản ứng tại chỗ ngay vị trí tiêm thì phổ biến, mặc dù tỷ lệ được báo cáo rất khác nhau (<10 đến > 50%). Tần suất của các biến cố bất lợi thay đổi theo các yếu tố như tiền sử tiêm chủng, nồng độ kháng thể kháng độc tố bạch hầu trước khi tiêm chủng, vắc xin phối hợp bao gồm cả giải độc tố bạch hầu, và liều lượng sử dụng giải độc tố. Phản ứng tại chỗ và đau tại chỗ tiêm xảy ra thường xuyên hơn khi tăng số mũi tiêm, và khi kết hợp với giải độc tố uốn ván, hoặc với kháng nguyên ho gà và giải độc tố uốn ván .44

Các biến cố bất lợi nhẹ sau khi tiêm DTwP mũi cơ bản và mũi tiêm nhắc ở trẻ nhũ nhi và trẻ em bao gồm các phản ứng tại chỗ (50%) và các phản ứng toàn thân như sốt >38°C và khó chịu (40–75%), buồn ngủ (33–62%), chán ăn (20–35%), và nôn (6–13%). Khi tiêm vắc-xin có chứa kháng nguyên ho gà vô bào ta có thể gặp các biến cố bất lợi nhẹ tương tự nhưng ít xảy ra hơn so với việc tiêm vắc-xin chứa kháng nguyên ho gà toàn tế bào. Các biến cố bất lợi nghiêm trọng hơn hiếm gặp và có thể bao gồm thân nhiệt vượt quá 40,5°C (0,3% số người tiêm vắc xin), sốt cao co giật (8 trên 100.000 mũi tiêm) hoặc các cơn giảm trương lực giảm đáp ứng (0–291 trên 100.000 mũi tiêm). Trong quá trình chủng ngừa cơ bản, các biến cố bất lợi nghiêm trọng cũng xảy ra sau DTaP tương tự như DTwP nhưng với tần suất ít hơn. Các cơn co giật, khóc dai dẳng, các cơn giảm trương lực-giảm đáp ứng và sốt trên 40°C không thường xuyên được báo cáo sau khi tiêm DTaP.45 Không có mối quan hệ nhân quả nào được xác định giữa DTwP và bệnh não cấp tính.

 Ở người lớn, tỷ lệ phản ứng tại chỗ  xảy ra thường xuyên hơn với mũi tiêm nhắc lại chứa 12 Lf giải độc tố bạch hầu so với so với mũi tiêm chứa 5 hoặc 2 Lf giải độc tố bạch hầu.46 Từ những quan sát trên dẫn đến khuyến nghị tiêm vắc xin giải độc tố bạch hầu (Td) liều thấp cho những cá nhân ≥ 7 tuổi. Các thử nghiệm lâm sàng cho thấy DT và DTaP tương đương nhau về khả năng gây phản ứng tại chỗ và toàn thân khi được sử dụng để tiêm chủng cơ bản cho trẻ nhũ nhi. Các phản ứng tại chỗ diện rộng được ghi nhận ở 1–2% số người tiêm nhắc DTaP. Dữ liệu hiện có cho thấy cả giải độc tố uốn ván lẫn giải độc tố bạch hầu đều góp phần vào tính sinh phản ứng của Td và DT.45

(*) theo Hội Y học Dự phòng Việt Nam

Tin tức liên quan